Mở rộng sản xuất nông nghiệp hữu cơ - Bài 2

Bài 2: Khuyến khích phát triển nông nghiệp hữu cơ

Tạo ra sản phẩm nông nghiệp an toàn, có giá trị từ nông nghiệp hữu cơ (NNHC) cần nhiều thời gian, tiền vốn và công sức của người sản xuất. Do đó, để khuyến khích NNHC phát triển ổn định, bền vững, bên cạnh việc thay đổi nhận thức của người tiêu dùng, cần có sự vào cuộc quyết liệt hơn nữa của các cơ quan quản lý có trách nhiệm…

 

Còn nhiều khó khăn, thách thức

Hiện nay, trên cả nước đã có nhiều địa phương tham gia sản xuất NNHC, nhưng hiệu quả vẫn còn thấp. Riêng diện tích trồng trọt hữu cơ hiện mới chỉ đạt hơn 23.000 ha, trong đó cây lương thực (lúa, ngô) có chín tỉnh có mô hình với diện tích 11.000 ha, rau hữu cơ tại 14 tỉnh với diện tích hơn 2.000 ha, chè hữu cơ ở tám tỉnh với diện tích 2.800 ha, cây ăn quả hữu cơ tại 10 tỉnh với diện tích 4.700 ha, cây điều hữu cơ tại hai tỉnh Ðắk Nông và Bình Phước với diện tích 2.155 ha…

Người sản xuất NNHC đang đứng trước rất nhiều khó khăn về đầu ra cho sản phẩm, nguồn vốn đầu tư, đất đai... Tại nhiều địa phương, việc quy hoạch, tập trung, tích tụ đất cho sản xuất hữu cơ chưa được triển khai hợp lý, thiếu ổn định, trong khi NNHC cần sản xuất theo vùng cách ly với nông nghiệp truyền thống, nhằm ngăn tác động của hóa chất với sản phẩm. Các nhà doanh nghiệp cho rằng, chi phí đầu tư ban đầu của NNHC thường cao hơn bình thường. Trong khi đó, sản xuất hữu cơ không mang lại lợi ích kinh tế ngay do phân hữu cơ và các chế phẩm sinh học có tác dụng chậm. Môi trường cần thời gian lập lại cân bằng sinh thái, thời gian này càng kéo dài càng ảnh hưởng tới quá trình thu hồi vốn của các nhà đầu tư. Bên cạnh đó, nguồn nhân lực sản xuất nông nghiệp của nước ta đa phần trình độ chưa cao, còn mang tính tự phát, chưa được đào tạo. Ðây cũng là khó khăn lớn đối với sản xuất NNHC.

Theo Tổng Giám đốc Công ty Delco Farm Lê Khánh Mạnh, hiện các doanh nghiệp và các hộ nông dân sản xuất NNHC đang phải đối mặt với nhiều khó khăn. Ðó là, xu hướng dân số tăng nhanh trong khi diện tích đất trồng trọt ngày càng bị thu hẹp do nhu cầu phát triển kinh tế đã tạo áp lực đối với việc khai thác, sử dụng đất và sử dụng sản phẩm hữu cơ. Bên cạnh đó, thói quen sử dụng phân bón vô cơ, thuốc bảo vệ thực vật hóa học còn rất phổ biến. Cùng với đó, nhận thức chưa cao của người sản xuất, người tiêu dùng đối với sản phẩm an toàn thực phẩm cũng ảnh hưởng đến tổ chức sản xuất, tiêu thụ sản xuất hữu cơ. Delco Farm hiện đã chuyển hướng làm NNHC nhưng mới chỉ áp dụng trên quy mô nhỏ với những khách hàng truyền thống. Muốn sản xuất lớn thì thiếu quỹ đất và quan trọng là nhu cầu tiêu dùng sản phẩm NNHC chưa cao, nhất là tại các chợ đầu mối, chợ dân sinh. Mặt khác, công tác kiểm soát của các cơ quan quản lý có trách nhiệm đối với mặt hàng nông sản chưa tốt. Ðiều này dễ tạo khe hở cho những tổ chức, cá nhân làm ăn không nghiêm chỉnh lợi dụng, trà trộn sản phẩm không bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm vào để bán theo giá nông sản sạch, vừa gây lũng đoạn thị trường vừa làm mất lòng tin của người tiêu dùng vào sản phẩm NNHC.

Cục trưởng Cục Trồng trọt Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Bộ NN và PTNT) Nguyễn Như Cường cho rằng, vướng mắc lớn nhất trong phát triển NNHC hiện nay là quỹ đất và sự liên kết theo chuỗi trong sản xuất và kinh doanh mặt hàng này. Tại nhiều địa phương, mặc dù Nhà nước đã có những chính sách phát triển rất cụ thể nhưng do công tác quy hoạch đất đai còn hạn chế, việc kiểm soát trong sản xuất, lưu thông chưa thật sự được chú trọng nên chưa có sự phát triển đồng bộ, mang tính ổn định cao cho các sản phẩm NNHC. Do đó, các địa phương cần đẩy mạnh hơn nữa việc phát triển các vùng sản xuất NNHC tập trung và các sản phẩm hữu cơ chủ lực; phát triển đa dạng các hình thức tổ chức sản xuất sản phẩm hữu cơ; nghiên cứu phát triển và ứng dụng công nghệ trong nông nghiệp hữu cơ; đào tạo, tập huấn phát triển nguồn nhân lực; phát triển các tổ chức chứng nhận, hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn và quy trình kỹ thuật; tăng cường chế biến, tiêu thụ và xuất khẩu sản phẩm hữu cơ và phát triển các vật tư đầu vào phục vụ phát triển NNHC. Cùng với đó, về chính sách cần nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực thi pháp luật về NNHC; hoàn thiện thể chế, cơ chế chính sách, thúc đẩy nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ, hợp tác quốc tế; đẩy mạnh thông tin tuyên truyền và xây dựng, nhân rộng các mô hình điểm về NNHC.

Theo đánh giá của Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản (Bộ NN và PTNT), thực tế hiện nay tại nhiều nơi, người làm công tác quản lý và người sản xuất hiểu biết về sản xuất NNHC chưa sâu sắc cho nên đầu tư và hiệu quả sản xuất chưa cao. Mặc dù đã có những tiêu chuẩn chung cho trồng trọt, chăn nuôi hữu cơ, nhưng các địa phương cần có các quy trình sản xuất cụ thể cho các cây, con khác nhau để người dân dễ áp dụng. Ngoài ra, việc phục hồi, cải tạo đất đã bị thoái hóa, ô nhiễm... để phục vụ sản xuất NNHC cần phải có thời gian, tài chính, công nghệ kỹ thuật; chi phí cho sản xuất NNHC cao cũng là thách thức không nhỏ đối với nông dân và các hợp tác xã, doanh nghiệp nhỏ và vừa. Hiện nay, nhiều đơn vị, hộ dân sản xuất chưa tiếp cận được với chính sách hỗ trợ của chính quyền địa phương...

Liên kết để phát triển bền vững

Mặc dù các sản phẩm hữu cơ đang là xu hướng và có nhu cầu lớn trên thị trường trong nước, nhưng việc đưa các sản phẩm NNHC đến với người tiêu dùng vẫn đang gặp khó khăn. Theo thống kê, có tới 85% nông sản được tiêu thụ qua các kênh bán lẻ truyền thống (chợ truyền thống, các cửa hàng nhỏ lẻ, bán lẻ, bán rong…); 15% còn lại là qua kênh hiện đại (siêu thị, cửa hàng tiện lợi…). Ngoài thị trường trong nước, hiện tại cũng đã có nhiều đơn vị xuất khẩu các loại rau, quả hữu cơ với sản lượng xuất khẩu mỗi năm khoảng hơn 260 nghìn tấn. Ngoài ra, một số hàng thủy sản hữu cơ như tôm, cá tra cũng được khách hàng các quốc gia nhập khẩu đánh giá tốt, mua giá cao hơn khoảng 30% so với tôm, cá tra thông thường.

Ðề án phát triển NNHC giai đoạn 2020 - 2030 đã cụ thể hóa việc tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững. Ðề án nhằm thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia và phát huy tiềm năng thế mạnh về NNHC của các vùng, miền và địa phương, góp phần định vị và nâng cao thương hiệu sản phẩm nông nghiệp Việt Nam trên bản đồ nông nghiệp thế giới; đưa Việt Nam trở thành quốc gia có trình độ sản xuất NNHC ngang bằng các nước tiên tiến trên thế giới. Bên cạnh đó, NNHC đang là xu thế phát triển và sẽ phát triển nhanh trong thời gian tới do bảo đảm cung cấp được các sản phẩm tốt hơn cho sức khỏe con người và cho xã hội. Thứ trưởng NN và PTNT Trần Thanh Nam cho biết, để thực hiện hiệu quả sản xuất NNHC, bên cạnh diện tích tiếp tục phải thâm canh, tăng năng suất nhằm bảo đảm an ninh lương thực, thì từng địa phương căn cứ vào diện tích đất, cũng như mặt hàng nông nghiệp chủ lực để chỉ đạo phát triển NNHC. Các địa phương cần tập trung công tác đào tạo và nâng cao năng lực sản xuất để các hợp tác xã, doanh nghiệp, tổ hợp tác, nhóm hộ và hộ dân triển khai các mô hình NNHC hiểu rõ tiêu chuẩn, quy chuẩn về sản phẩm nông nghiệp sản xuất. Một điều quan trọng là chính các nhà sản xuất NNHC cần phối hợp với các cơ quan quản lý nhà nước trong việc quản lý các sản phẩm NNHC khi đưa ra thị trường về nhãn mác, chất lượng để tự bảo vệ thương hiệu sản xuất của mình.

Trước nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của doanh nghiệp cũng như người dân đối với các sản phẩm NNHC hiện nay, Chính phủ xác định NNHC đang có xu thế phát triển và sẽ phát triển nhanh trong thời gian tới do bảo đảm cung cấp được các sản phẩm tốt hơn cho sức khỏe con người và xã hội. Cùng với chủ trương khuyến khích phát triển NNHC của Nhà nước, vai trò của doanh nghiệp trong mô hình sản xuất hữu cơ liên kết theo chuỗi giá trị là rất quan trọng, từ đó hình thành và phát triển các chuỗi liên kết trong sản xuất một cách bền vững. Doanh nghiệp đóng vai trò là nhà đầu tư, người tổ chức sản xuất, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, bảo đảm thị trường tiêu thụ trong liên kết dọc, người sản xuất được hỗ trợ một phần chi phí. Trong chuỗi cung - cầu, nhà sản xuất và kinh doanh liên kết lại, hỗ trợ nhau sản xuất, kinh doanh hiệu quả. Trong đó, quan trọng nhất là thu hút các doanh nghiệp có khả năng thu mua, chế biến sâu và bảo đảm đầu ra cho các sản phẩm hữu cơ. Ðây là các doanh nghiệp có vai trò quyết định đẩy mạnh lượng cầu trong sản xuất hữu cơ. Bên cạnh đó, các địa phương cần tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp cung cấp đầu vào hoạt động, lựa chọn các doanh nghiệp có uy tín, chất lượng. Ðồng thời, vai trò của các hộ gia đình, các tổ nhóm, hợp tác xã sản xuất hữu cơ không thể thiếu trong chuỗi liên kết này. Các địa phương căn cứ vào lợi thế về điều kiện sinh thái, sản phẩm có thế mạnh và thị trường tiêu thụ, xác định các sản phẩm NNHC chủ lực, trên cơ sở đó xây dựng đề án phát triển NNHC, đánh giá đất đai, nguồn nước, xây dựng cơ chế, chính sách hỗ trợ, định hướng phát triển các vùng sản xuất NNHC tập trung, kêu gọi các doanh nghiệp, các hợp tác xã và người dân có nhu cầu sản xuất hữu cơ đầu tư vào sản xuất. Các cơ quan quản lý nhà nước cần thực hiện nghiêm việc kiểm tra giám sát các cơ sở sản xuất, kinh doanh sản phẩm hữu cơ và chất lượng sản phẩm nông nghiệp hữu cơ theo quy định để bảo đảm chất lượng sản phẩm phù hợp với tiêu chuẩn đã được chứng nhận khi lưu thông trên thị trường. Ði đôi với việc hoàn thiện thể chế, cơ chế chính sách phát triển NNHC, cần thiết lập hệ thống truy xuất nguồn gốc sản phẩm hữu cơ tại từng công đoạn sản xuất, kinh doanh…

Ngồn: https://nhandan.vn

Theo Hiệp hội Nông nghiệp hữu cơ Việt Nam, tổng mức tiêu thụ sản phẩm hữu cơ tại thị trường trong nước hằng năm khoảng 500 tỷ đồng, trong đó tập trung tại những thành phố lớn như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh và Đà Nẵng. Chỉ tính riêng thị trường Hà Nội và TP Hồ Chí Minh, nhu cầu sản phẩm hữu cơ rất lớn, trong khi nguồn cung chỉ đáp ứng khoảng 1%. Như vậy, thị phần cho nông sản hữu cơ được đánh giá hiện vẫn còn tới 99%.