Một Số Loại Bệnh Trên Cây Lúa

I. Tiêm hạch lúa - Sclerotium oryzae Catt:

Là 1 trong số bệnh lúa tương đối nguy hiểm ở nước ta và cũng là bệnh phổ biến ở nhiều nước trồng lúa nước  trên thế giới. Ở Ấn Độ, bệnh tiêm hạch có khi làm chết đến 70 - 80% mạ. Ở Nam Bộ, theo Roger, bệnh thường phá hoại nghiêm trọng ở các tỉnh Bạc Liêu, Cần Thơ, Sóc Trăng. Ở miền Bắc nước ta, từ năm 1954 tới nay năm nào bệnh cũng xuất hiện, gây ra nhiều tổn thất. 

1. Triệu chứng gây bệnh tiêm hạch lúa (Sclerotium oryzae Catt.)

- Thay đổi tùy theo điều kiện ngoại cảnh. Trước hết là vết bệnh xuất hiện ở phần bẹ dưới thấp rồi lan dần ra. Vết bệnh đầu tiên là những chấm nâu, dần chuyển thành nâu đậm, rồi sau đen hẳn.

Lúc mới hình thành vết bệnh hình tròn sau hình thành bầu dục và phát triển dài ra, ăn sâu vào trong phá hoại nhu mô bẹ và ống ra làm cho bộ phận bị thối nhũn.

- Cây lúa bị tiêm hạch lá vàng úa, khô chết. Khi cây bị nhẹ cây lúa có thể trỗ nhưng hạt lép nhiều. Vào cuối thời kỳ sinh trưởng, hạch nấm thường hình thành ở mặt trong ống rạ gần mặt nước, ống rạ bị bệnh thường phân giải thành chất nhầy, có mùi hôi. Khi ống dạ thối nhũn thì toàn bộ cây bị lụn xuống, lúc này rễ cây lúa bị thối đen. 

2. Nguyên nhân gây bệnh tiêm hạch lúa (Sclerotium oryzae Catt.)

- Phát hiện bệnh tiêm hạch do nấm Selerotium Oryzae lần đầu tiên vào năm 1876.

- Sợi nấm Sclerotium oryzae Catt. mảnh, không màu, đa bào, nhiều nhánh, thường không hình thành vòi hút. Sợi nấm già có màu vàng và thắt lại ở các ngăn ngang, thường hình thành nhiều bào tử hậu hình tròn màu nâu đậm, vỏ dày.

- Hạch nấm hình cầu hoặc bầu dục rất nhỏ, hạch non màu trắng chuyển sang màu vàng nâu, hạch màu đen bóng, trơn, kích thước trung bình của hạt hạch 384 micromet.

- Hạch nấm Sclerotium oryzae Catt. thường được hình thành trong mô bẹ lá và phần thân cây phần trên sát mặt nước. 

- Quả thể bầu của nấm Sclerotium oryzae Catt. có màu đen, hình cầu cổ ngắn, đường kính 202 - 481 micrromet. Túi chùy có ống nhỏ ngắn, kích thước 90 - 128x 14 micromet, chứa từ 4 - 8 bào tử túi. Bào tử túi hình thoi hơi cong, có 3 ngăn ngang, màu nâu, các tế bào hai đầu màu nâu nhạt, có kích thước 3,8 - 5,3x7 - 8 micrromet. 

- Hạch nấm Sclerotium oryzae Catt. mọc rất mạnh trên các môi trường pH 6,5 - 8. Dung dịch lọc môi trường cấy nấm có tác dụng kích thích sinh trưởng của lúa. 

Lưu ý: ( chúng ta có thể tìm hiểu sâu hơn về đặc điểm và sự hình thành hạch nấm)

+ Sự hình thành hạch nấm Sclerotium oryzae Catt. phụ thuộc vào điều kiện nhiệt độ rõ rệt, ở nhiệt độ 25 - 30 độ C hạch hình thành nhiều nhất. Nói chung khả năng chịu nhiệt độ của hạch rất cao. 

+ Hạch chịu đựng trong điều kiện khô dễ dàng và có thể sống từ 2 - 3 năm. Trong điều kiện ngập nước ở nhiệt độ thấp, hạch sống lâu hơn ở nhiệt độ cao., ở 5 độ C hạch sống 3 năm, ở 20 độ C hạch sống được 2 năm, ở 35 độ C hạch sống được 4 tháng. 

+ Dưới tác động của ánh sáng mặt trời, hạch chỉ sống được 1 năm. Hạch nấm có thể bị một số tác động lý hóa học tiêu diệt như rượu, Formol, axit axetic, NAOH 10%,...

3. Đặc điểm phát sinh phát triển của bệnh tiêm hạch hại lúa (Sclerotium oryzae Catt.)

- Vị trí xâm nhập của nấm vào cây lúa phụ thuộc vào chế độ nước trong ruộng, nhưng nói chung bao giờ cũng trên sát mặt nước.

- Bệnh phát triển mạnh trong điều kiện ngập nước, nước tù và ở ruộng yếm khí. Nếu ruộng lúa được tháo cạn nước sau khi đẻ nhánh bệnh giảm so với nước ngập. 

- Bệnh có thể xuất hiện vào bất cứ giai đoạn nào của lúa. Bệnh phá hoại nặng từ giai đoạn lúa có đòng trở đi.

- Cây lúa bị sây sát, sinh trưởng yếu bệnh thường xâm nhập dễ dàng. Sự phát sinh phát triển bệnh phụ thuộc vào chế độ phân bón và mật độ. Nếu bón quá lượng đạm thì cây bị bệnh nặng; nếu cấy lúa quá dày thiếu không khí và ánh sáng thì bệnh cũng nặng.

- Ở miền Bắc nước ta, trên các giống lúa mùa cũ ngắn ngày bệnh thường nhẹ hơn những giống lúa dài ngày nhất là lúa mùa muộn. Ngoài ra, những giống lúa cứng cây, số lá và dảnh vừa phải gây bệnh thường nhẹ hơn những giống lúa cây mềm, rậm rạp. Nhưng trong vài năm gần đây trên những giống lúa mới ngắn ngày, cứng cây bệnh ít phát sinh và phá hại, đặc biệt là một số giống của Viện Lúa Quốc Tê. 

- Ở vụ mùa, bệnh thường phát sinh mạnh từ tháng 9 - 10 dương lịch khi nhiệt độ không khí 27 - 30 độ C. Ở vụ xuân, bệnh phát sinh mạnh từ tháng 5.  

4. Biện pháp phòng trừ bệnh tiêm hạch hại lúa (Sclerotium oryzae Catt.)

- Dọn sạch rơm rạ, gốc rạ bị bệnh đem đốt, không nên đánh đóng hoặc dùng để phủ đất các loại cây trồng khác ngoài đồng ruộng.

- Chọn giống lúa chống bệnh. Nhóm giống lúa Japonica có khả năng chống bệnh cao hơn nhóm giống lúa Indica.

- Có thể sử dụng thuốc để diệt ổ bệnh trung tâm khi bệnh chỉ xuất hiện ở 1 góc ruộng như: New Hinosan 30EC (1,2 l/ha); Ravral 50 WP (0,1 - 0,2 %); Dithan M45 - 80WP (1,5 - 2 kg/ha) kết hợp với thay đổi mức nước trong ruộng và vơ bỏ các lá già khô chết.

 

II. Tiêm lửa hại lúa - Bipolaris oryzeae:

Bệnh tiêm lửa hại lúa (Bipolaris oryzeae ) có phạm vi phân bố rộng, phổ biến ở các nước trồng lúa thuộc Châu Á, châu Mỹ và Châu Phi. Hạt bị bệnh phẩm chất và phẩm chất và trọng lượng giảm 4,58 – 29,1%. Bệnh hại mức độ nhẹ, khi bệnh nặng vết bệnh làm lá sớm vàng và khô chết. Bệnh làm cháy lá mạ, lúa nhiễm bệnh vào lúc đòng non cho đến trỗ vỏ hạt thường bị đen, tỷ lệ hạt lửng và lép cao.

1. Triệu chứng bệnh tiêm lửa hại lúa (Bipolaris oryzeae )

- Bệnh tiêm lửa hại lúa có thể xuất hiện trên lá mầm, bẹ lá, lá và hạt.

- Khi hạt nhiễm bệnh, vết bệnh là các đốm nhỏ màu nâu trên lá mầm và các rễ non cũng có thể bị bệnh dưới dạng các vết đen nhạt.

- Vết bệnh ban đầu trên lá, là chấm nhỏ màu vàng, sau đó chuyển sang màu nâu nhạt và vết bệnh điển hình có hình bầu dục giống hạt vừng, có màu nâu non, xung quanh có quầng vàng.

- Đôi khi bệnh phát triển mạnh làm lá khô vàng và chết. Kích thước, số lượng vết bệnh tùy thuộc vào thời tiết và giống. Trên các giống mẫn cảm vết bệnh lớn và nhiều, ngược lại trên các giống lúa chịu hoặc kháng vết bệnh nhỏ và ít. 

- Vết bệnh trên bẹ lá đòng và trên vỏ hạt lúa có mùa nâu không có hình dạng nhất định, khi bệnh nặng nấm có thể phát triển và bao phủ hoàn toàn lơp svor hạt và xâm nhập vào nội nhũ. 

2. Nguyên nhân gây bệnh tiêm lửa hại lúa (Bipolaris oryzeae )

- Bệnh do nấm Bipolaris oryzae gây ra (Breda de Haan) Shoem. gây ra, tên khác Helminthosporium oryzae . - Sợi nấm đa bào, phân nhánh, đường kính 4 – 8 micromet màu nâu đến xám nhạt cành bào tử phân sinh mọc thành cụm đa bào, phần gốc lớn hơn phần đỉnh cành và hơi gẫy khúc.

- Bào tử phân sinh, hình con nhộng thon dài thẳng hoặc hơi cong. Hai đầu tròn có từ 3 – 11 ngăn ngang. Kích thước bào tử biến động từ 15 – 170x7 – 26 micromet.

- Trên hạt giống nấm tồn tại trên vỏ hạt, ở mày hạt, giữa lớp mày và vỏ hạt, đôi khi ở nội nhũ.

- Nấm sinh trưởng trong phạm vi nhiệt độ khá rộng. Nhiệt độ thích hợp nhất cho nấm sinh trưởng là 27 – 30 độ C, cho bào tử nảy mầm là 25 - 30 độ C trong điều kiện ẩm độ 60 - 100%. Bào tử hình thành ở nhiệt độ từ 5 - 38 độ C, pH 4 - 10. Bào tử chết ở nhiệt độ 50 - 51 độ C, sợi nấm chết ở nhiệt độ 48 - 50 độ trong 10 phút. Trong điều kiện thuận lợi nấm xâm nhập vào cây trong 4h. 

3. Đặc điểm phát sinh, phát triển bệnh tiêm lửa hại lúa (Bipolaris oryzeae)

- Nấm có thể tồn tại trong rơm rạ, trong đất và sống sót trên hạt giống trong bảo quản dưới dạng bào tử hoặc sợi nấm tiềm sinh trong khoảng thời gian từ 2 – 3 năm.

- Nguồn bệnh đầu tiên thường từ hạt giống nhiễm bệnh, nấm gây bệnh trên chồi non và rễ làm giảm tỷ lệ nảy nầm khoảng 11 – 29% và giảm sức sống của cây con.

- Tỷ lệ bệnh truyền qua hạt giống là trên các lô giống bị nhiễm bệnh có thể lên đến 59,4%. Trên đồng ruộng bệnh lan truyền nhờ gió. Nấm có thể gây hại trên 23 loài cỏ dại một lá mầm.. 

- Bệnh gây hại chủ yếu trên các giống lúa dài ngày, thiếu dinh dưỡng và vào các thời kỳ khủng hoảng dinh dưỡng trong giai đoạn sinh trưởng của cây lúa (cuối mạ, lúa bị hạn, sau đẻ nhánh, đòng non,...)

4. Biện pháp phòng trừ bệnh tiêm lửa hại lúa (Bipolaris oryzeae )

- Vệ sinh đồng ruộng, dọn dẹp sạch cỏ dại và tàn dư rơm rạ, cấy đúng thời vụ, bón phân đúng kỹ thuật, đảm bảo đủ nước cho lúa, luân canh và cải tạo đất.

- Đảm bảo cung cấp đầy đủ dinh dưỡng cho lúa.

- Chú ý việc chọn lọc giống như phơi khô, quạt sạch, chọn hạt mẩy, sáng bóng, không có vết đốm nâu.

- Có thể sử dụng biện pháp sử  lý hạt giống bằng nước nóng 54 độ C trong 10 phút hoặc sử lý bằng thuốc diệt nấm rồi đãi cho sạch đem ủ cho thóc nảy mầm và gieo.

- Trong trường hợp cần thiết có thể phun thuốc trừ nấm như: New Hinosan 30EC (1,2 l/1ha); Kitazin 50EC ( 1 - 5l/ha); Rovral 50 WP (0,1 - 0,2%); Zineb 80WP (1kg/ha).

 

III. Gạch nâu hại lúa - Cercospora Janseana (Racib) O. Const:

Bệnh phổ biến trên lúa ở các vùng trồng lúa trong nước và trên thế giới. Trên các giống nhiễm có thể bị bệnh nặng, thiệt hại tới 40% năng suất.

1. Triệu chứng bệnh

Bệnh chủ yếu ở phiến lá (có khi ở bẹ và vỏ hạt). Vết bệnh là những sọc ngắn như một nét gạch bút chì dọc theo gân lá dài 2 – 10 mm, rộng 1 – 2 mm, có màu nâu nhạt hoặc sẫm tùy theo giống.

2. Nguyên nhân gây bệnh

- Nấm bệnh tạo ra trờn vết bệnh nhiều bào tử phân sinh đùi trống dài, thon ở 1 đầu, đa bào khụng màu, kích thước từ 20 – 60 x 5 micromet.

3. Đặc điểm phát sinh phát triển

Bệnh phát sinh muộn, thường phát triển mạnh vào thời kỳ lúa trỗ, nở hoa. Bệnh hại trên cả lá già, lá non. Nấm bảo tồn trên hạt giống.

4. Biện pháp phòng trừ

Sử dụng giống kháng bênh. Chỉ xử lý hạt giống hoặc phun thuốc trên đồng ruộng như các bệnh đốm nâu, tiêm lửa trong trường hợp cần thiết. Có thể sử dụng các thuốc như: Dithane M – 45, Carbendazim 0,2%, Bonazan 100DD, Cyproconazole (0,3 – 0,4 lít) hoặc Tilt super 300ND (0,3 lít/ha nồng độ 0,1%).

 

IV. Vân nâu lá lúa - Microdochium oryzae Samuels:

1. Triệu chứng bệnh

- Bệnh hại chủ yếu trên các lá già, các lá có chóp lá chạm mặt ruộng nước. Vết bệnh tạo thành nhiều đường vân vòng cung nối tiếp nhau loen rộng ra, bắt đầu từ chóp lá loen rộng vào giữa phiến lá hoặc bắt đầu từ mép lá loen rộng vào trong. Các đường vân cung có màu nâu, nâu nhạt, chiều dài 1 – 5 cm, chiều rộng 0,5 – 1 cm, chiều rộng 0,5 – 1 cm (chiếm cả chiều rộng lá). Cuối cùng lá lúa bị khô táp gọi là bỏng lá lúa

- Trên bẹ lá tạo ra những đốm nhỏ hình bầu dục, hình chữ nhật, màu nâu đỏ, tím đen, về sau vết đốm to dần chuyển sang màu nâu, xám. Bệnh có thể hại trên cổ bông và trên hạt làm biến đổi màu vỏ hạt. Bệnh làm giảm 20 – 30% năng suất lúa. 

2. Nguyên nhân gây bệnh

- Nấm có sợi đa bào, tản nấm dầy xốp màu trắng mọc nhanh trên môi trường. Bào tử phân sinh hình trăng khuyết cong có 1 – 3 ngăn ngang nhưng thông thuồng là 2 tế bào, không màu (khi tụ lại thành hình khối bào tử có màu hồng nhạt).

3. Đặc điểm phát sinh phát triển bệnh

- Bệnh thường xuất hiện vào thời kỳ cây lúa đang sinh trưởng, từ giai đoạn lúa ccon đứng gái, đứng cái đến đòng trỗ  (hại trên lá) thường vào tháng 3 – 4 trở đi (vụ lúa xuân) và tháng 8 – 9 (vụ lúa mùa), trong điều kiện nhiệt độ tương đối cao, tăng dần và có nắng, nhất là những ruộng có nước. Nấm bệnh bảo tồn trên tàn dư lá bệnh và ở trên hạt giống một thời gian lâu dài, có khi tới 11 năm (Mathur và Neergaard, 1985).

4. Biện pháp phòng trừ

Phun thuốc và sử lý hạt giống bằng Dithane M – 45, Carbendazim (Bavistin) hoặc Benlat 1,5 – 3 g/kg hạt.

Nguồn: Giáo trình bệnh cây chuyên khoa